Phạm Thông
Lời giới thiệu: Cám ơn Anh Thông rất nhiều Anh đã đồng ý đề chúng tôi đưa lên bài viết này. Bài viết mô tả cái cảm giác ngày xưa thực đáng quý chứ không áp đặt cái nhìn của ngày nay vào sự việc. Rất nhiều kỷ niệm riêng và cũng là chung mà Anh mô tả được. Cácbạn xem sẽ hiểu mình Ngày ấy-Bây giờ-Mai sau. Đề nghị các bạn góp ý những ý kiến theo quan điểm của bạn: Bàn Tường là Bằng Tường? Chuyến xa hay Chuyên xa? Ki ếp hay Ki-ev?…
Mọi góp ý ở đây hoặc trực tiếp với tác giả:
Phạm Thông
Sinh năm 1951.
Quê Tam Kỳ, Quảng Nam
Học trường đại học TY-CN Starazagora
Sang Bungari 1975 về nước 1981
ĐT: 05102237199
Email: phamthongtu@.com.vn
Hành trình xuyên lục địa
Ngày 23 tháng 8 năm 1975, tôi lên lên tàu hoả đi Đông Âu. Năm ấy, sinh viên Việt Nam du học trên tất cả các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa là 650 người. Trong đó, 350 người đi Liên Xô, số còn lại đi các nước Cu Ba, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hunggari, Rumani và Bungari. Đoàn đi Bungari có 42 sinh viên. Trước khi du học, chúng tôi được tập trung học ngoại ngữ một năm tại trường Đại học Ngoại ngữ Thanh xuân, Hà Nội nên đã quen biết nhau. Đoàn đi Bungari được chia thành ba tổ. Đoàn có chi bộ gồm bốn người, anh Cát cán bộ của Bảo tàng Điện Biên Phủ làm bí thư chi bộ. Anh Đông, Trung uý bộ đội ở chiến trường miền Nam ra Bắc an dưỡng, thi đậu đại học làm đoàn trưởng. Đối với đoàn Bungari, tất cả mọi việc trên đường do hai anh ấy điều hành.
9 giờ tối, chúng tôi lên tàu Liên vận rời ga Hàng Cỏ, chạy về phía Lạng Sơn. Chiến tranh vừa chấm dứt, đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn quá xấu, tàu chạy như rạm bò, mãi hơn hai giờ khuya mới tới Ga Đồng Đăng. Tàu tiếp tục chạy, đến biên giới Trung Việt dừng lại làm thủ tục xuất nhập cảnh theo đoàn. Tất cả chúng tôi sang tàu Trung Quốc. Tàu Việt Nam không thể chạy được vào đường sắt Trung quốc, vì kích cỡ tàu hoả của ta quá hẹp.
Đến Bàn Tường, ga biên giới của Trung Quốc, đã 7 giờ sáng. Chao ôi, lần đầu tiên chúng tôi thấy một cái ga tàu hoả to, sang và đẹp như thế. Nền của phòng đợi lát bằng đá mài bóng lộn. Những thằng sinh viên xuất ngoại, chân đi giày nhọn mõm chưa quen, phần khệ nệ chiếc va ly, cố tỳ chân bước vào phòng khách, sợ trợt té. Có đứa lo trợt, không quan sát kỹ, xông thẳng vào những mảng tường bằng kính ngã kềnh, cười bể bụng. Nghỉ ở đây vài tiếng đồng hồ đợi chuyển tàu, chúng tôi tìm chỗ đi làm vệ sinh cá nhân. Vào toilet, lần đầu tiên thấy vòi tắm hoa sen, mọi thứ rất sạch sẽ, bóng lộn, tất cả đối với tôi đều lạ lẫm như một gả nhà quê lên thị. Và, thoáng nghĩ “Trung Quốc đã thế này thì ở châu Âu sẽ còn mới lạ bao nhiêu nữa”.
Tàu chúng tôi đi là loại Chuyến xa, ít sang như Liên vận nhưng cũng quá đổi tiện nghi rồi. Nhân viên phục vụ đối xử với chúng tôi rất niềm nở, mỗi phòng hai người có bộ ấm trà, phích nước sôi, ăn uống rất ngon, hợp khẩu vị.
Tàu chạy trên đường ray hai chiều, tôi để ý thử, cứ một tiếng tàu chạy trên một trăm cây số. Nhanh thật. Nghĩ mà thương đất nước mình, mới thoát khỏi chiến tranh, nghèo và lạc hậu lắm. Chuyến xa chạy từ phía nam lên cực bắc Trung Quốc, không đi ngang Bắc Kinh, Ulambato mà vòng phía đông, lên Mãn Châu Lý đến thẳng biên giới Xô Trung đúng bốn ngày đêm. Đến biên giới, chúng tôi sang tàu Liên Xô. Từ biệt, nhân viên tàu hoả ôm chúng tôi hát bài “Việt Nam Trung Hoa/ Núi liền núi/ Sông liền sông/Chung một biển đông/ Mối tình hữư nghị/ Sáng như rạng đông… rất cảm động.
Trên đất Liên Xô, tàu hoả chạy bằng năng lượng điện, rộng, sang và đẹp hơn tàu Trung Quốc. Tàu chạy với vận tốc 120 km/giờ, từ đông sang tây, theo hướng mặt trời lặn nên ngày rất dài. Vì, trong một ngày tàu vượt đến vài múi giờ về phía tây, ngày cũng dài thêm vài tiếng đồng hồ vậy. Có đi tàu hoả mới tận mắt chứng kiến đất nước Liên Xô vĩ đại với rừng Tai ga liên tiếp, trùng trùng hàng ngàn cây số, với những thảo nguyên mênh mông ngút tầm mắt…Ở vùng Xibêri dân cư vô cùng thưa thớt, không nhà, không làng xóm, tàu chạy cả ngàn cây số mới có một thành phố. Có lẽ đó là những thành phố hình thành sau đại chiến thứ II để khai thác tài nguyên của vùng đất Xibêri rộng lớn này. Ấn tượng nhất là tàu chạy cả ngày mới qua hết quãng đường sắt dọc hồ Bai Kan. Hồ là biển nước ngọt mênh mông nằm trong lòng núi rừng Xibêri. Có đi như thế này mới hình dung được diện tích rừng của Liên Xô rộng gấp hàng chục lần đất nước mình, như tôi đã từng nghe thầy giáo đi học Nga về kể chuyện.
Trên tàu Trung Quốc, nhân viên tàu hoả đối xử niềm nở theo lối xã giao phương Đông. Thêm nữa, tàu Trung Quốc có người phục vụ biết tiếng Việt, họ tiếp xúc và hướng dẫn chúng tôi một vài điều. Nghe người nước khác nói tiếng Việt thật lý thú. Lên tàu Nga, tôi dị ứng ngay, thái độ của họ lạnh lùng. Mà tôi thật vội vàng, vô lý. Bởi, dị văn, ngôn ngữ bất đồng làm sao niềm nở ngay được.
Thêm
Ý kiến phản hồi